Bài Suy Niệm Chúa Nhật
thứ 31 Thường Niên Năm B
Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta nên tự hỏi, "Chúng ta có hiệp thông với Chúa không?" Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta phải hiểu ý nghĩa của việc hiệp thông với Chúa là gì.
Bắt đầu từ Bài đọc thứ nhất trong Sách Đệ nhị luật, chúng ta đã nghe Ông Môisen đưa ra cho dân Chúa những quy tắc cần thiết để hiệp thông với Chúa. Bây giờ chúng ta biết rằng có một số người không thích các quy tắc. Họ nghĩ rằng có quá nhiều quy tắc trên thế giới này. Có những quy tắc phải tuân theo ở nhà, quy tắc ở nơi làm việc, quy tắc ở trường học, quy tắc trong chính phủ, quy tắc trong Giáo hội, quy tắc ở mọi nơi. Nhưng trong trường hợp này, nếu chúng ta coi trọng Sự cứu rỗi quý giá của mình, thì những quy tắc này là hoàn toàn bắt buộc. Chúng ta không thể uốn cong những quy tắc này, cũng không thể phớt lờ chúng. Để đảm bảo sự hiệp thông hoàn hảo với Chúa, Ông Môisen bắt đầu bài giảng huấn và dạy mọi người hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa. Có lẽ chúng ta không nên dùng từ 'sợ hãi'. Một số người Công giáo không thích nghe rằng chúng ta phải kính sợ Chúa. Đó là vì họ không hiểu ý nghĩa của 'yêu' so với 'sợ hãi'.
"Thiên Chúa là tình yêu thương, và những ai ở trong tình yêu thương thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong họ. Tình yêu thương đã được hoàn thiện giữa chúng ta trong điều này: để chúng ta có thể dạn dĩ vào ngày phán xét, bởi vì chính Ngài mà chúng ta được sinh ra trong thế gian này. Không có sự sợ hãi trong tình yêu thương, nhưng tình yêu thương trọn vẹn loại trừ sự sợ hãi; vì sự sợ hãi liên quan đến hình phạt, và bất cứ ai sợ hãi thì không đạt đến sự hoàn hảo trong tình yêu thương." [1 Gioan 4:16b-19]
Nói cách khác, khi chúng ta biết đến Thiên Chúa và chúng ta được Chúa Thánh Linh thánh hóa để lớn lên trong tình yêu thương của Thiên Chúa, thì nỗi sợ hãi của chúng ta đối với Thiên Chúa sẽ biến mất. Chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa là Đấng tốt lành và công bằng. Ngài không phải là một người cha bạo hành thích trừng phạt con cái của Ngài. Bây giờ, chúng ta không nói rằng Ngài không trừng phạt con cái của Ngài vì đôi khi Ngài làm như vậy vì chúng ta đáng bị như vậy.
Trong vấn đề này, trong thư gửi cho tín hữu Do Thái có đoạn viết: "Hãy chịu thử thách để được sửa dạy. Thiên Chúa đối xử với anh em như con cái; vì có đứa con nào mà cha mẹ không sửa dạy? Nếu anh em không có sự sửa dạy, thì anh em là nhưng đứa con hoang chứ không phải con của Ngài. Hơn nữa, chúng ta có cha mẹ loài người sửa dạy chúng ta, và chúng ta tôn trọng họ. Chúng ta chẳng phải càng muốn phục tùng Cha của các linh hồn hơn sao? Vì cha mẹ chúng ta đã sửa dạy chúng ta trong một thời gian còn bé theo ý họ, nhưng Thiên Chúa sửa dạy chúng ta vì lợi ích của chúng ta, để chúng ta có thể chia sẻ sự thánh khiết của Ngài. Bây giờ, sự sửa dạy luôn có vẻ đau đớn khó chịu hơn là dễ chịu vào lúc đó, nhưng về sau sẽ mang lại hoa trái công bình và sự bình an cho những ai đã được rèn luyện bởi lời Chúa dạy." [Do Thái 12:7-11] Do đó, sự sợ hãi, liên quan đến sự sửa dạy, là một phần của quá trình thánh hóa tâm hồn. Khi người tin Chúa đạt đến một mức độ thánh khiết cao hơn, nỗi sợ hãi sẽ biến mất, thay vào đó là tình yêu đích thực trong Đấng Kitô.
Ông Môisen tiếp tục dạy, "Hãy giữ mọi luật lệ và điều răn để các ngươi được sống lâu, hãy cẩn thận tuân giữ Luật Chúa." Nói cách khác, không được bẻ cong các luật của Thiên Chúa. Sự kiên trì là cần thiết, cho đến cùng. Sau cùng ông Môisen ra lệnh cho dân chúng phải ghi nhớ trong lòng họ rằng Thiên Chúa là Một và họ phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực. Đây là sự tận hiến hoàn toàn cho Chúa, sống vì Chúa, sống với Chúa và sống nhờ Chúa. Không có gì được thực hiện nếu không có Chúa! Khi Thiên Chúa ngự trong các tín hữu thông qua Chúa Thánh Linh của Ngài, mọi suy nghĩ, lời nói và hành động của các tín hữu phải thánh khiết như Chúa là thánh khiết. Các tín hữu phải tỏa sáng trong tình yêu thương như Chúa là tình yêu thương. Đó là sự hiệp thông hoàn hảo với Chúa.
Bây giờ mọi thứ đã thay đổi một chút kể từ thời Môisen. Có ai trong số chúng ta đã 'nhận thấy' điều đó không? Vào thời ông Môisen, dân do thái muốn đến với Chúa phải qua các thầy thượng tế. Vì tất cả chúng ta ai cũng đều phải chết, nên khi một số thầy thượng tế đã chết, hoặc vì tuổi già hoặc vì bệnh tật. Điều đó có nghĩa là phải có một thầy thượng tế khác cầu thay cho họ với Chúa. Nhưng giờ đây, chúng ta có Chúa Giêsu là thầy thượng tế hoàn hảo của chúng ta thông qua chức tư tế vĩnh cửu của Ngài theo Dòng Mên-chi-xê-đéc. [Do Thai 5:6, 7:17, 21] Ngài có thể cứu những ai đến gần Chúa qua Ngài trong mọi thời đại, vì Ngài luôn sống để cầu thay cho chúng ta. Chúng ta có những thầy thượng tế thượng phẩm tốt nhất trong tất cả các thầy thượng tế. Chúa Chúa Giêsu là Đấng thánh khiết, không tì vết, không ô uế, tách biệt khỏi tội nhân, được tôn cao hơn các tầng trời. Ngài không phải dâng lễ hy sinh ngày này qua ngày khác cho chính mình và cho người khác như các thầy thượng tế của Giao ước Cũ phải làm. Ngài đã làm của lễ hoàn hảo một lần cho tất cả khi Ngài hiến dâng chính mình như Chiên Con hy sinh trên Thánh giá.
Để giúp tâm linh của chúng ta được thăng tiến hằng ngày và giúp chúng ta có thể tận hưởng sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, chúng ta có Chúa Giêsu, vị tư tế thượng phẩm hoàn hảo, Đấng Trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người. [1 Tim. 2:5]
Bài Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta rằng sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa có thể đạt được thông qua hai luật thiêng liêng. Trước tiên, chúng ta phải "yêu mến Chúa là Thiên Chúa chúng ta hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực". Sau đó, chúng ta phải "yêu người lân cận như chính mình". Đây là hai Điều răn tóm tắt tất cả các Điều răn khác của Thiên Chúa. Không có Điều răn nào khác lớn hơn những Điều răn này.
Những Điều răn này quan trọng hơn bất kỳ lễ vật hay hy lễ hy sinh nào. Nếu một người không có tình yêu, người đó chẳng có gì cả. Nếu một người dành thời gian cầu nguyện nhưng không thể thể hiện tình yêu đối với người lân cận, người đó không có tình yêu đích thực trong mình, và Thiên Chúa cũng không ngự trong người đó. Vì Thiên Chúa là tình yêu và những ai ngự trong tình yêu thì ngự trong Thiên Chúa. Họ quan tâm đến người lân cận của mình. Họ vươn tới họ. Họ hỗ trợ nhau. Họ khuyến khích nhau trong kiên trì.
Nếu chúng ta tuân theo hai Điều răn yêu thương, thì sự hiệp thông hằng ngày của chúng ta với Chúa đang được hoàn thiện qua Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô. Nếu chúng ta tuân theo hai Điều răn yêu thương, thì chúng ta không còn xa Vương quốc của Chúa nữa.
Tuần này, chúng ta hãy suy ngẫm về tình trạng hiệp thông hằng ngày của chúng ta với Chúa. Chúng ta có đang ở nơi chúng ta nên ở trong sự tăng trưởng tâm linh của mình, nơi Chúa Giêsu muốn chúng ta ở vì vinh quang của Cha trên trời không? Nếu chúng ta đang ở nơi đó, thì chúng ta nên kiên trì trong ân sủng của Chúa. Nếu chúng ta chưa ở nơi đó, thì chúng ta nên cầu xin Chúa Giêsu sai Chúa Thánh Thần của Ngài đến để hướng dẫn chúng ta trên con đường đúng đắn để chúng ta có thể đạt được sự thánh khiết mà Chúa Cha tìm kiếm nơi tất cả con cái của Ngài.
Thirty-first Sunday in
Ordinary Time (B)
Today, we should ask ourselves, "Are we in communion with God?" In order to answer that question, we must understand what it means to be in communion with the Lord God.
Starting with the First Reading from the Book of Deuteronomy, we heard Moses giving to God's people the rules that are required to be in communion with God. Now I know that there are some who do not like rules. They think that there are too many rules in this world. There are rules that have to be followed at home, rules at work, rules at school, rules in the government, rules in sports, rules in the Church, rules everywhere. But in this case, if we value our precious Salvation, these rules are absolutely mandatory. We cannot bend these rules, nor ignore them.
To secure a perfect communion with God, Moses began his discourse by telling the people to fear the Lord God. Oops! Maybe I should not have used the word 'fear.' Some Catholics do not like to hear that we must have a fear of God. That is because they do not understand the meaning of 'love' versus 'fear.'
"God is love, and those who abide in love abide in God, and God abides in them. Love has been perfected among us in this: that we may have boldness on the day of judgment, because as he is, so are we in this world. There is no fear in love, but perfect love casts out fear; for fear has to do with punishment, and whoever fears has not reached perfection in love." [1 Jn. 4:16b-19]
In other words, as we get to know God and we are sanctified by the Holy Spirit to grow in the love of God, our fear of God fades away. We come to perceive that God is good and just. He is not an abusive father who enjoys punishing His children. Now, I am not saying that He does not punish His children because at times He does because they deserve it.
On this subject, the Letter to the Hebrews states, "Endure trials for the sake of discipline. God is treating you as children; for what child is there whom a parent does not discipline? If you do not have that discipline in which all children share, then you are illegitimate and not his children. Moreover, we had human parents to discipline us, and we respected them. Should we not be even more willing to be subject to the Father of spirits and live? For they disciplined us for a short time as seemed best to them, but he disciplines us for our good, in order that we may share his holiness. Now, discipline always seems painful rather than pleasant at the time, but later it yields the peaceful fruit of righteousness to those who have been trained by it." [Heb. 12:7-11] Therefore fear, that involves discipline, is part of the sanctifying process of the soul. When the believer has reached a higher level of holiness, the fear fades away, it being replaced with true love in Christ.
Moses continued, "Keep all the decrees and commandments so you may live a long time, observe them diligently." In other words, no bending the rules. Perseverance is necessary, right to the end.
Then, Moses commanded to remember in their hearts that God is One and that they must love God with all their hearts, with all their souls, and with all their might. This is a total consecration to God, living for God, living with God, and living through God. Nothing is done without God! Dwelling within the believers through His Holy Spirit, every thoughts, words and action of the believers must be holy as God is holy. The believers must shine in love as God is love. That is being in perfect communion with God.
Now things have changed a little bit since the days of Moses. Have any of you 'noticed' that? (If anyone says yes, he/she must be pretty old to 'notice' the change because Moses was born over 3,500 years ago.)
In the days of Moses, the people had to approach God through the priests. As we are all called to die, some of the priests died, either of old age or of illness. That meant getting another priests to intercede to God on their behalf. But now, we have Jesus as our perfect priest through His eternal priesthood of the Order of Melchizedek. [Heb. 5:6, 7:17, 21] He is able for all time to save those who approach God through Him, since He always lives to make intercession for them.
We have the best of all high priests. Jesus is holy, blameless, undefiled, separated from sinners, exalted above the heavens. He does not have to make sacrifices day after day for Himself and then for others as the high priests of the Old Covenant had to do. He made the perfect Sacrifice once for all when He offered Himself as the sacrificial Lamb on the Holy Cross.
To assist us in our daily spiritual growth so we may enjoy a perfect communion with God, we have Chúa Giêsu, the perfect high priest, the only Mediator between God and man. [1 Tim. 2:5]
Today's Gospel Reading teaches us that the fullness of our communion with God can be achieved through two spiritual laws. First, we must "love the Lord our God with all our heart, and with all our soul, and with all our mind, and with all our strength." Then, we must "love our neighbor as ourselves." These are the two Commandments that summarizes all the other Commandments of God. There are no other Commandments greater than these.
These Commandments are more important than any offerings or sacrifices. If one does not have love, he has nothing. If one spends his time in prayer but cannot show love towards his neighbor, he does not have true love in him, nor does God abide in him. For God is love and those who abide in love abide in God. They care about their neighbors. They reach out to them. They support them. They encourage them to persevere.
If we obey the two Commandments of love, our daily communion with God is being perfected through Christ, with Christ and in Christ. If we obey the two Commandments of love, we are not far from the Kingdom of God.
This week, let us reflect on the status of our daily communion with God. Are we where we should be in our spiritual growth, where Jesus wants us to be for the glory of the heavenly Father? If we are, then we should persevere in the grace of God. If we are not, then we should ask the Lord Jesus to send His Holy Spirit to guide us in the right path so we may attain the holiness that God the Father seeks of all his children.
Thirty-first Sunday in
Ordinary Time (B)
Qua Bài Tin Mừng, chúng ta thấy người thông luật đã thông hiểu luật Chúa. Và khi ông ta đã đặt ra một câu hỏi cho Chúa Giêsu sau khi Chúa Giêsu bị một số người Sa-đu-sê thách thức vì họ không chấp nhận lời dạy của Chúa Giêsu về sự phục sinh của người chết. Những người Sa-đu-sê đang cố gắng tìm cách làm Chúa Giêsu vấp ngã để buộc tội Ngài , và người thông luật này đã lắng nghe cẩn thận câu trả lời của Chúa Giêsu và thấy rằng câu trả lời đó rất hay. Do đó, người thông luật này đã hỏi Chúa Giêsu câu hỏi của chính mình. Ông không hỏi câu hỏi này để cố gắng gài bẫy Chúa Giêsu, mà vì ông tỏ ra chân thành muốn nghe câu trả lời của Chúa Giêsu. Vì vậy, ông đã hỏi Chúa Giêsu, "Trong các điều răn, điều nào là điều răn đầu tiên?" Đối với câu hỏi đó, Chúa Giêsu đã tóm tắt toàn bộ luật pháp của Chúa rằng trước tiên chúng ta phải yêu Chúa hết lòng, hết trí, hết linh hồn và hết sức, rồi sau đó yêu người lân cận như chính mình.
Tất cả chúng ta phải cố gắng noi gương người thông luật này. Thật mạo hiểm khi ông thể hiện sự ủng hộ Chúa Giêsu. Nhiều người thông luật khác khá thù địch với Chúa Giêsu. Do đó, bằng cách công khai bày tỏ sự đồng tình của mình với những gì Chúa Giêsu dạy, ông đã tự đặt mình vào nguy cơ bị chỉ trích. Nhưng có vẻ như ông không quan tâm đến điều đó. Ông là người tìm kiếm chân lý, và Chúa Giêsu đã dành cho ông một lời khen ngợi lớn khi nói rằng: “Ông không còn xa vương quốc của Thiên Chúanữa”.
Trong thế giới ngày càng thế tục của chúng ta, có nhiều chân lý của Chúa đang bị công khai đặt câu hỏi và thách thức. Sự đồng thuận về chân lý đạo đức đang trở thành ngoại lệ hơn là chuẩn mực. Kết quả là, tất cả chúng ta sẽ thấy mình đang trải qua sự thù địch từ thế giới chỉ vì là người tìm kiếm chân lý. Nhiều người thậm chí còn thấy rằng chỉ cần từ chối công khai ủng hộ sự vô đạo đức khách quan sẽ khiến họ trở thành mục tiêu của thế giới thế tục.
Chúng ta có phải là người tìm kiếm chân lý không? Chúng ta có nhận ra chân lý thánh thiện của Chúa khi nghe chúng không? Nếu có, Chúng ta có đủ can đảm để theo đuổi những chân lý đó và diễn đạt chúng theo ý Chúa trước mặt người khác không? Truyền giáo khác với cải đạo. Cải đạo là sự rao giảng chân lý của Chúa một cách thù địch và mạnh mẽ. Nó mang tính tranh luận và thiếu sự tôn trọng cơ bản đối với quyền tự do và phẩm giá của người khác. Mặt khác, truyền giáo là một hoạt động thiết yếu mà mọi tín đồ của Chúa Kitô phải tham gia. Trọng tâm của truyền giáo là sự tìm kiếm chân lý một cách trung thực và khiêm nhường trong mọi tình huống. Người truyền bá Phúc âm không tấn công người khác. Họ không chỉ trích và lên án. Thay vào đó, họ tìm cách tự mình hiểu toàn bộ sự thật và sau đó công khai chia sẻ sự thật đó với những người cởi mở với nó.
Theo nhiều cách, người ghi chép này đã làm như vậy. Ông lắng nghe, hiểu, tìm hiểu và sau đó chia sẻ đức tin của mình vào những gì Chúa Giêsu đã nói một cách thoải mái. Những người lắng nghe ông, đặc biệt là những người ghi chép khác, có thể không đồng ý với kết luận của ông. Họ thậm chí có thể chỉ trích ông trong số họ. Nhưng lời chứng của người ghi chép này có thể đã mở ra tâm trí và trái tim của những người khác đang lắng nghe. Một số người sẽ cảm nhận được sự cởi mở, sự hiểu biết và phản ứng vui vẻ của ông và cho phép cuộc trò chuyện của ông với Chúa Giêsu tác động đến họ theo hướng tốt. Vì vậy, bằng cách công khai tìm kiếm sự thật, người ghi chép này cũng đã truyền bá Phúc âm cho những người khác và Chúa Giêsu đã khen ngợi ông vì công việc tốt đẹp của ông.
Hãy suy ngẫm, hôm nay, về cách Chúng ta chia sẻ đức tin của mình với người khác. Chúng ta có phải là người có xu hướng tranh luận và lên án không? Hay Chúng ta để niềm vui khi tự mình khám phá ra những sự thật của Chúa làm công việc truyền bá Phúc âm? Hãy là người tìm kiếm Sự thật. Hãy làm như vậy một cách công khai và vui vẻ. Nếu Chúng ta làm vậy, những người khác sẽ khám phá ra nơi Chúng ta những lẽ thật của Chúa mà họ cần và sẽ được mời gọi noi theo sự tìm kiếm lẽ thật của Chúng ta trong cuộc sống của họ.
Lạy Chúa của mọi Lẽ thật, trong Chúa và chỉ một mình Chúa, chúng con sẽ khám phá ra những lẽ thật giải thoát chúng con. Xin ban cho con ân sủng và lòng can đảm mà con cần để luôn tìm kiếm lẽ thật mà Chúa dạy. Khi con khám phá và hiểu được mọi điều Chúa dạy, xin giúp con bày tỏ những khám phá của mình với niềm vui và sự nhiệt thành để những người khác cũng sẽ bị thu hút đến với Chúa. Chúa Giê-xu, con tin cậy nơi Chúa.
Reflection Sunday 31th Ordinary Time Year B
The scribe said to him, “Well said, teacher. You are right in saying, ‘He is One and there is no other than he.’ And ‘to love him with all your heart, with all your understanding, with all your strength, and to love your neighbor as yourself’ is worth more than all burnt offerings and sacrifices.” Mark 12:32–33
This scribe got it. He posed a question to Giêsu after Giêsu was challenged by some of the Sadducees who did not accept Giêsu’ teachings about the resurrection of the dead. The Sadducees were trying to trip Giêsu up, and this scribe listened carefully to Giêsu’ answer and found it to be well said. Therefore, this scribe asks Giêsu his own question. He doesn’t ask this question in an attempt to trap Giêsu, but because he appeared to sincerely want to hear Giêsu’ answer. So he asked Giêsu, “Which is the first of all the commandments?” To that question, Giêsu gives a summary of the whole law of God saying that we must first love God with our whole heart, mind, soul and strength and then love our neighbor as ourselves.
We must all try to imitate this scribe. It was risky for him to show support of Giêsu. Many of the other scribes were quite hostile toward Giêsu. Therefore, by openly expressing His agreement with what Giêsu taught, he was putting himself at risk of being criticized. But it appears he was not concerned about that. He was a seeker of truth, and Giêsu ended up paying him a huge compliment by saying, “You are not far from the kingdom of God.”
In our growingly secular world, there are many truths of God that are being openly questioned and challenged. Agreement on what are the moral truths is becoming more of the exception than the norm. As a result, we will all find ourselves experiencing hostility from the world simply by being seekers of the truth. Many people even find that a mere refusal to openly support objective immorality will make them a target of the secular world.
Are you a seeker of truth? Do you recognize the holy truths of God when you hear them? If so, do you have the courage you need to pursue those truths and articulate them in accord with the mind of God in the presence of others? Evangelization is different from proselytism. Proselytism is a hostile and forceful preaching of the truths of God. It is argumentative and lacks basic respect for the freedom and dignity of others. Evangelization, on the other hand, is an essential practice that every follower of Christ must engage in. At the heart of evangelization is an honest and humble seeking of the truth in every situation. One who evangelizes does not attack another. They do not criticize and condemn. Instead, they seek to understand the full truth themselves and then openly share that truth with those who are open to it.
In many ways, this scribe did just that. He listened, understood, inquired, and then freely shared his faith in what Giêsu said. Those who listened to him, especially other scribes, might not have agreed with his conclusions. They might have even criticized him among themselves. But the witness of this scribe might have opened the minds and hearts of others who were listening. Some would have sensed his openness, his understanding, and his joyful response and allowed his conversation with Giêsu to affect them for the good. Thus, by openly seeking the truth, this scribe also evangelized others and Giêsu praised Him for his good work.
Reflect, today, upon the way that you share your faith with others. Are you one who tends to be argumentative and condemning? Or do you allow the joy of your own discovery of the truths of God do the evangelizing? Be a seeker of Truth. Do so openly and with joy. If you do, others will discover in you the truths of God that they need and will be invited to imitate your truth-seeking in their own lives.
Lord of all Truth, in You and You alone will we discover the truths that set us free. Give me the grace and courage I need to always seek out the truth You teach. As I discover and understand all that You teach, help me to express my discoveries with joy and enthusiasm so that others will also be drawn to You. Giêsu, I trust in You.
Thirty-first Sunday in
Ordinary Time (B) 2024
Opening Prayer: Lord God, I love you. My heart is yours to dwell in. My soul longs to be with you. My mind rejoices to contemplate all you have done for me. My strength depends on your power. May my love for you flourish in service to my brothers and sisters today.
Encountering the Word of God
1. Deuteronomy as Moses’ Last Will and Testament: Today’s First Reading is taken from the Book of Deuteronomy, which contained Moses’ last speeches before his death. When Moses spoke to them, the people of Israel were at the end of their forty years of wandering in the desert. Throughout their time in the wilderness, Israel continually rebelled against the Lord. When Israel worshipped the golden calf at the beginning of their time in the desert, the priesthood was stripped from the first-born sons and reserved to the tribe of Levi (Exodus 32:29). Additional laws about the Levites and the Priesthood were given to the people in the Book of Leviticus. Something similar happens here in the Book of Deuteronomy. Moses responded to the people’s sinful apostasy at Baal Peor (Numbers 25) with more laws that were recorded in the Book of Deuteronomy. Moses tried to prepare the people for life in the Promised Land: “He warns the twelve tribes of the challenges they will face in the future and urges them to be mindful of the lessons of the past. Above all, Moses proclaims the Lord’s love for Israel and makes powerful appeals for Israel to return his love by loyal obedience to the covenant” (Ignatius Catholic Study Bible: Deuteronomy, p. 14). Deuteronomy “emphasizes the need to obey the Lord and love him with all one’s heart, anticipating Jesus’ teaching on the first and greatest commandment” (A Catholic Guide to the Old Testament, p. 167).
2. The Two Great Commandments: As the New Lawgiver, Jesus responded to the scribe who asked him about the greatest of the 613 laws given in the Five Books of Moses (Genesis through Deuteronomy). The scribe approved of Jesus’ answer that the first commandment is to love God and that the second is to love our neighbor. The scribe added that living these two commandments was more valuable than all the burnt offerings (holocausts), animal sacrifices, and other offerings made in the Temple in Jerusalem. The sacrifices were rituals that symbolized the worshipper’s self-offering to God. Some sacrifices – like the burnt offering, cereal offering, and peace offering – expressed communion with God. The other two types of sacrifices – the sin offering and the guilt offering – sought to restore communion with God. By proclaiming love of God and love of neighbor as the two greatest commandments, Jesus brings the many and varied laws about sacrifices to their fulfillment. The animal sacrifices commanded by the Law of Moses foreshadowed the perfect self-offering of Jesus, who empowers us with the grace of the Holy Spirit to lovingly offer our lives to God and lovingly serve our brothers and sisters.
3. The Son was Appointed High Priest by Oath: The Second Reading draws out a contrast between the old and the new, between the old priesthood and the new priesthood. The Letter to the Hebrews wants us to understand how Jesus is a priest, especially since he did not descend from the tribe of the Levites or the priestly line of Aaron. The author’s solution in the letter is to refer to a greater priesthood, to that of the royal sons of David. The author points out that the Levitical priests were many and subject to death. As well, the High Priest who descended from Aaron had to offer sacrifices for his own sins and for those of the people. The Aaronic High Priest was appointed by the Law of Moses and not by a covenant oath sworn by God. The greater priesthood is that of Jesus, the Son of God and Son of David, who was appointed by God the Father and perfected (ordained) as a priest through his passion and sacrificial death. Jesus does not have to offer up many sacrifices daily and yearly in the earthly Temple. Jesus has offered up the one perfect and pleasing sacrifice of himself. This sacrifice effectively takes away the sins of the world and offers forgiveness and salvation to those who approach the Father through the Son. Even now, sitting at the right hand of God the Father, Jesus makes intercession for us as our eternal, faithful, and merciful high priest.
Conversing with Christ: Lord Jesus, eternal and merciful high priest, intercede for me before the Father and send me your Holy Spirit so that I may love the Father with all my heart, soul, mind, and strength. Enlighten my mind to know how I am called to serve my brothers and sisters today.
Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta nên tự hỏi, "Chúng ta có hiệp thông với Chúa không?" Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta phải hiểu ý nghĩa của việc hiệp thông với Chúa là gì.
Bắt đầu từ Bài đọc thứ nhất trong Sách Đệ nhị luật, chúng ta đã nghe Ông Môisen đưa ra cho dân Chúa những quy tắc cần thiết để hiệp thông với Chúa. Bây giờ chúng ta biết rằng có một số người không thích các quy tắc. Họ nghĩ rằng có quá nhiều quy tắc trên thế giới này. Có những quy tắc phải tuân theo ở nhà, quy tắc ở nơi làm việc, quy tắc ở trường học, quy tắc trong chính phủ, quy tắc trong Giáo hội, quy tắc ở mọi nơi. Nhưng trong trường hợp này, nếu chúng ta coi trọng Sự cứu rỗi quý giá của mình, thì những quy tắc này là hoàn toàn bắt buộc. Chúng ta không thể uốn cong những quy tắc này, cũng không thể phớt lờ chúng. Để đảm bảo sự hiệp thông hoàn hảo với Chúa, Ông Môisen bắt đầu bài giảng huấn và dạy mọi người hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa. Có lẽ chúng ta không nên dùng từ 'sợ hãi'. Một số người Công giáo không thích nghe rằng chúng ta phải kính sợ Chúa. Đó là vì họ không hiểu ý nghĩa của 'yêu' so với 'sợ hãi'.
"Thiên Chúa là tình yêu thương, và những ai ở trong tình yêu thương thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong họ. Tình yêu thương đã được hoàn thiện giữa chúng ta trong điều này: để chúng ta có thể dạn dĩ vào ngày phán xét, bởi vì chính Ngài mà chúng ta được sinh ra trong thế gian này. Không có sự sợ hãi trong tình yêu thương, nhưng tình yêu thương trọn vẹn loại trừ sự sợ hãi; vì sự sợ hãi liên quan đến hình phạt, và bất cứ ai sợ hãi thì không đạt đến sự hoàn hảo trong tình yêu thương." [1 Gioan 4:16b-19]
Nói cách khác, khi chúng ta biết đến Thiên Chúa và chúng ta được Chúa Thánh Linh thánh hóa để lớn lên trong tình yêu thương của Thiên Chúa, thì nỗi sợ hãi của chúng ta đối với Thiên Chúa sẽ biến mất. Chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa là Đấng tốt lành và công bằng. Ngài không phải là một người cha bạo hành thích trừng phạt con cái của Ngài. Bây giờ, chúng ta không nói rằng Ngài không trừng phạt con cái của Ngài vì đôi khi Ngài làm như vậy vì chúng ta đáng bị như vậy.
Trong vấn đề này, trong thư gửi cho tín hữu Do Thái có đoạn viết: "Hãy chịu thử thách để được sửa dạy. Thiên Chúa đối xử với anh em như con cái; vì có đứa con nào mà cha mẹ không sửa dạy? Nếu anh em không có sự sửa dạy, thì anh em là nhưng đứa con hoang chứ không phải con của Ngài. Hơn nữa, chúng ta có cha mẹ loài người sửa dạy chúng ta, và chúng ta tôn trọng họ. Chúng ta chẳng phải càng muốn phục tùng Cha của các linh hồn hơn sao? Vì cha mẹ chúng ta đã sửa dạy chúng ta trong một thời gian còn bé theo ý họ, nhưng Thiên Chúa sửa dạy chúng ta vì lợi ích của chúng ta, để chúng ta có thể chia sẻ sự thánh khiết của Ngài. Bây giờ, sự sửa dạy luôn có vẻ đau đớn khó chịu hơn là dễ chịu vào lúc đó, nhưng về sau sẽ mang lại hoa trái công bình và sự bình an cho những ai đã được rèn luyện bởi lời Chúa dạy." [Do Thái 12:7-11] Do đó, sự sợ hãi, liên quan đến sự sửa dạy, là một phần của quá trình thánh hóa tâm hồn. Khi người tin Chúa đạt đến một mức độ thánh khiết cao hơn, nỗi sợ hãi sẽ biến mất, thay vào đó là tình yêu đích thực trong Đấng Kitô.
Ông Môisen tiếp tục dạy, "Hãy giữ mọi luật lệ và điều răn để các ngươi được sống lâu, hãy cẩn thận tuân giữ Luật Chúa." Nói cách khác, không được bẻ cong các luật của Thiên Chúa. Sự kiên trì là cần thiết, cho đến cùng. Sau cùng ông Môisen ra lệnh cho dân chúng phải ghi nhớ trong lòng họ rằng Thiên Chúa là Một và họ phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực. Đây là sự tận hiến hoàn toàn cho Chúa, sống vì Chúa, sống với Chúa và sống nhờ Chúa. Không có gì được thực hiện nếu không có Chúa! Khi Thiên Chúa ngự trong các tín hữu thông qua Chúa Thánh Linh của Ngài, mọi suy nghĩ, lời nói và hành động của các tín hữu phải thánh khiết như Chúa là thánh khiết. Các tín hữu phải tỏa sáng trong tình yêu thương như Chúa là tình yêu thương. Đó là sự hiệp thông hoàn hảo với Chúa.
Bây giờ mọi thứ đã thay đổi một chút kể từ thời Môisen. Có ai trong số chúng ta đã 'nhận thấy' điều đó không? Vào thời ông Môisen, dân do thái muốn đến với Chúa phải qua các thầy thượng tế. Vì tất cả chúng ta ai cũng đều phải chết, nên khi một số thầy thượng tế đã chết, hoặc vì tuổi già hoặc vì bệnh tật. Điều đó có nghĩa là phải có một thầy thượng tế khác cầu thay cho họ với Chúa. Nhưng giờ đây, chúng ta có Chúa Giêsu là thầy thượng tế hoàn hảo của chúng ta thông qua chức tư tế vĩnh cửu của Ngài theo Dòng Mên-chi-xê-đéc. [Do Thai 5:6, 7:17, 21] Ngài có thể cứu những ai đến gần Chúa qua Ngài trong mọi thời đại, vì Ngài luôn sống để cầu thay cho chúng ta. Chúng ta có những thầy thượng tế thượng phẩm tốt nhất trong tất cả các thầy thượng tế. Chúa Chúa Giêsu là Đấng thánh khiết, không tì vết, không ô uế, tách biệt khỏi tội nhân, được tôn cao hơn các tầng trời. Ngài không phải dâng lễ hy sinh ngày này qua ngày khác cho chính mình và cho người khác như các thầy thượng tế của Giao ước Cũ phải làm. Ngài đã làm của lễ hoàn hảo một lần cho tất cả khi Ngài hiến dâng chính mình như Chiên Con hy sinh trên Thánh giá.
Để giúp tâm linh của chúng ta được thăng tiến hằng ngày và giúp chúng ta có thể tận hưởng sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, chúng ta có Chúa Giêsu, vị tư tế thượng phẩm hoàn hảo, Đấng Trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người. [1 Tim. 2:5]
Bài Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta rằng sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa có thể đạt được thông qua hai luật thiêng liêng. Trước tiên, chúng ta phải "yêu mến Chúa là Thiên Chúa chúng ta hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực". Sau đó, chúng ta phải "yêu người lân cận như chính mình". Đây là hai Điều răn tóm tắt tất cả các Điều răn khác của Thiên Chúa. Không có Điều răn nào khác lớn hơn những Điều răn này.
Những Điều răn này quan trọng hơn bất kỳ lễ vật hay hy lễ hy sinh nào. Nếu một người không có tình yêu, người đó chẳng có gì cả. Nếu một người dành thời gian cầu nguyện nhưng không thể thể hiện tình yêu đối với người lân cận, người đó không có tình yêu đích thực trong mình, và Thiên Chúa cũng không ngự trong người đó. Vì Thiên Chúa là tình yêu và những ai ngự trong tình yêu thì ngự trong Thiên Chúa. Họ quan tâm đến người lân cận của mình. Họ vươn tới họ. Họ hỗ trợ nhau. Họ khuyến khích nhau trong kiên trì.
Nếu chúng ta tuân theo hai Điều răn yêu thương, thì sự hiệp thông hằng ngày của chúng ta với Chúa đang được hoàn thiện qua Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô. Nếu chúng ta tuân theo hai Điều răn yêu thương, thì chúng ta không còn xa Vương quốc của Chúa nữa.
Tuần này, chúng ta hãy suy ngẫm về tình trạng hiệp thông hằng ngày của chúng ta với Chúa. Chúng ta có đang ở nơi chúng ta nên ở trong sự tăng trưởng tâm linh của mình, nơi Chúa Giêsu muốn chúng ta ở vì vinh quang của Cha trên trời không? Nếu chúng ta đang ở nơi đó, thì chúng ta nên kiên trì trong ân sủng của Chúa. Nếu chúng ta chưa ở nơi đó, thì chúng ta nên cầu xin Chúa Giêsu sai Chúa Thánh Thần của Ngài đến để hướng dẫn chúng ta trên con đường đúng đắn để chúng ta có thể đạt được sự thánh khiết mà Chúa Cha tìm kiếm nơi tất cả con cái của Ngài.
Today, we should ask ourselves, "Are we in communion with God?" In order to answer that question, we must understand what it means to be in communion with the Lord God.
Starting with the First Reading from the Book of Deuteronomy, we heard Moses giving to God's people the rules that are required to be in communion with God. Now I know that there are some who do not like rules. They think that there are too many rules in this world. There are rules that have to be followed at home, rules at work, rules at school, rules in the government, rules in sports, rules in the Church, rules everywhere. But in this case, if we value our precious Salvation, these rules are absolutely mandatory. We cannot bend these rules, nor ignore them.
To secure a perfect communion with God, Moses began his discourse by telling the people to fear the Lord God. Oops! Maybe I should not have used the word 'fear.' Some Catholics do not like to hear that we must have a fear of God. That is because they do not understand the meaning of 'love' versus 'fear.'
"God is love, and those who abide in love abide in God, and God abides in them. Love has been perfected among us in this: that we may have boldness on the day of judgment, because as he is, so are we in this world. There is no fear in love, but perfect love casts out fear; for fear has to do with punishment, and whoever fears has not reached perfection in love." [1 Jn. 4:16b-19]
In other words, as we get to know God and we are sanctified by the Holy Spirit to grow in the love of God, our fear of God fades away. We come to perceive that God is good and just. He is not an abusive father who enjoys punishing His children. Now, I am not saying that He does not punish His children because at times He does because they deserve it.
On this subject, the Letter to the Hebrews states, "Endure trials for the sake of discipline. God is treating you as children; for what child is there whom a parent does not discipline? If you do not have that discipline in which all children share, then you are illegitimate and not his children. Moreover, we had human parents to discipline us, and we respected them. Should we not be even more willing to be subject to the Father of spirits and live? For they disciplined us for a short time as seemed best to them, but he disciplines us for our good, in order that we may share his holiness. Now, discipline always seems painful rather than pleasant at the time, but later it yields the peaceful fruit of righteousness to those who have been trained by it." [Heb. 12:7-11] Therefore fear, that involves discipline, is part of the sanctifying process of the soul. When the believer has reached a higher level of holiness, the fear fades away, it being replaced with true love in Christ.
Moses continued, "Keep all the decrees and commandments so you may live a long time, observe them diligently." In other words, no bending the rules. Perseverance is necessary, right to the end.
Then, Moses commanded to remember in their hearts that God is One and that they must love God with all their hearts, with all their souls, and with all their might. This is a total consecration to God, living for God, living with God, and living through God. Nothing is done without God! Dwelling within the believers through His Holy Spirit, every thoughts, words and action of the believers must be holy as God is holy. The believers must shine in love as God is love. That is being in perfect communion with God.
Now things have changed a little bit since the days of Moses. Have any of you 'noticed' that? (If anyone says yes, he/she must be pretty old to 'notice' the change because Moses was born over 3,500 years ago.)
In the days of Moses, the people had to approach God through the priests. As we are all called to die, some of the priests died, either of old age or of illness. That meant getting another priests to intercede to God on their behalf. But now, we have Jesus as our perfect priest through His eternal priesthood of the Order of Melchizedek. [Heb. 5:6, 7:17, 21] He is able for all time to save those who approach God through Him, since He always lives to make intercession for them.
We have the best of all high priests. Jesus is holy, blameless, undefiled, separated from sinners, exalted above the heavens. He does not have to make sacrifices day after day for Himself and then for others as the high priests of the Old Covenant had to do. He made the perfect Sacrifice once for all when He offered Himself as the sacrificial Lamb on the Holy Cross.
To assist us in our daily spiritual growth so we may enjoy a perfect communion with God, we have Chúa Giêsu, the perfect high priest, the only Mediator between God and man. [1 Tim. 2:5]
Today's Gospel Reading teaches us that the fullness of our communion with God can be achieved through two spiritual laws. First, we must "love the Lord our God with all our heart, and with all our soul, and with all our mind, and with all our strength." Then, we must "love our neighbor as ourselves." These are the two Commandments that summarizes all the other Commandments of God. There are no other Commandments greater than these.
These Commandments are more important than any offerings or sacrifices. If one does not have love, he has nothing. If one spends his time in prayer but cannot show love towards his neighbor, he does not have true love in him, nor does God abide in him. For God is love and those who abide in love abide in God. They care about their neighbors. They reach out to them. They support them. They encourage them to persevere.
If we obey the two Commandments of love, our daily communion with God is being perfected through Christ, with Christ and in Christ. If we obey the two Commandments of love, we are not far from the Kingdom of God.
This week, let us reflect on the status of our daily communion with God. Are we where we should be in our spiritual growth, where Jesus wants us to be for the glory of the heavenly Father? If we are, then we should persevere in the grace of God. If we are not, then we should ask the Lord Jesus to send His Holy Spirit to guide us in the right path so we may attain the holiness that God the Father seeks of all his children.
Qua Bài Tin Mừng, chúng ta thấy người thông luật đã thông hiểu luật Chúa. Và khi ông ta đã đặt ra một câu hỏi cho Chúa Giêsu sau khi Chúa Giêsu bị một số người Sa-đu-sê thách thức vì họ không chấp nhận lời dạy của Chúa Giêsu về sự phục sinh của người chết. Những người Sa-đu-sê đang cố gắng tìm cách làm Chúa Giêsu vấp ngã để buộc tội Ngài , và người thông luật này đã lắng nghe cẩn thận câu trả lời của Chúa Giêsu và thấy rằng câu trả lời đó rất hay. Do đó, người thông luật này đã hỏi Chúa Giêsu câu hỏi của chính mình. Ông không hỏi câu hỏi này để cố gắng gài bẫy Chúa Giêsu, mà vì ông tỏ ra chân thành muốn nghe câu trả lời của Chúa Giêsu. Vì vậy, ông đã hỏi Chúa Giêsu, "Trong các điều răn, điều nào là điều răn đầu tiên?" Đối với câu hỏi đó, Chúa Giêsu đã tóm tắt toàn bộ luật pháp của Chúa rằng trước tiên chúng ta phải yêu Chúa hết lòng, hết trí, hết linh hồn và hết sức, rồi sau đó yêu người lân cận như chính mình.
Tất cả chúng ta phải cố gắng noi gương người thông luật này. Thật mạo hiểm khi ông thể hiện sự ủng hộ Chúa Giêsu. Nhiều người thông luật khác khá thù địch với Chúa Giêsu. Do đó, bằng cách công khai bày tỏ sự đồng tình của mình với những gì Chúa Giêsu dạy, ông đã tự đặt mình vào nguy cơ bị chỉ trích. Nhưng có vẻ như ông không quan tâm đến điều đó. Ông là người tìm kiếm chân lý, và Chúa Giêsu đã dành cho ông một lời khen ngợi lớn khi nói rằng: “Ông không còn xa vương quốc của Thiên Chúanữa”.
Trong thế giới ngày càng thế tục của chúng ta, có nhiều chân lý của Chúa đang bị công khai đặt câu hỏi và thách thức. Sự đồng thuận về chân lý đạo đức đang trở thành ngoại lệ hơn là chuẩn mực. Kết quả là, tất cả chúng ta sẽ thấy mình đang trải qua sự thù địch từ thế giới chỉ vì là người tìm kiếm chân lý. Nhiều người thậm chí còn thấy rằng chỉ cần từ chối công khai ủng hộ sự vô đạo đức khách quan sẽ khiến họ trở thành mục tiêu của thế giới thế tục.
Chúng ta có phải là người tìm kiếm chân lý không? Chúng ta có nhận ra chân lý thánh thiện của Chúa khi nghe chúng không? Nếu có, Chúng ta có đủ can đảm để theo đuổi những chân lý đó và diễn đạt chúng theo ý Chúa trước mặt người khác không? Truyền giáo khác với cải đạo. Cải đạo là sự rao giảng chân lý của Chúa một cách thù địch và mạnh mẽ. Nó mang tính tranh luận và thiếu sự tôn trọng cơ bản đối với quyền tự do và phẩm giá của người khác. Mặt khác, truyền giáo là một hoạt động thiết yếu mà mọi tín đồ của Chúa Kitô phải tham gia. Trọng tâm của truyền giáo là sự tìm kiếm chân lý một cách trung thực và khiêm nhường trong mọi tình huống. Người truyền bá Phúc âm không tấn công người khác. Họ không chỉ trích và lên án. Thay vào đó, họ tìm cách tự mình hiểu toàn bộ sự thật và sau đó công khai chia sẻ sự thật đó với những người cởi mở với nó.
Theo nhiều cách, người ghi chép này đã làm như vậy. Ông lắng nghe, hiểu, tìm hiểu và sau đó chia sẻ đức tin của mình vào những gì Chúa Giêsu đã nói một cách thoải mái. Những người lắng nghe ông, đặc biệt là những người ghi chép khác, có thể không đồng ý với kết luận của ông. Họ thậm chí có thể chỉ trích ông trong số họ. Nhưng lời chứng của người ghi chép này có thể đã mở ra tâm trí và trái tim của những người khác đang lắng nghe. Một số người sẽ cảm nhận được sự cởi mở, sự hiểu biết và phản ứng vui vẻ của ông và cho phép cuộc trò chuyện của ông với Chúa Giêsu tác động đến họ theo hướng tốt. Vì vậy, bằng cách công khai tìm kiếm sự thật, người ghi chép này cũng đã truyền bá Phúc âm cho những người khác và Chúa Giêsu đã khen ngợi ông vì công việc tốt đẹp của ông.
Hãy suy ngẫm, hôm nay, về cách Chúng ta chia sẻ đức tin của mình với người khác. Chúng ta có phải là người có xu hướng tranh luận và lên án không? Hay Chúng ta để niềm vui khi tự mình khám phá ra những sự thật của Chúa làm công việc truyền bá Phúc âm? Hãy là người tìm kiếm Sự thật. Hãy làm như vậy một cách công khai và vui vẻ. Nếu Chúng ta làm vậy, những người khác sẽ khám phá ra nơi Chúng ta những lẽ thật của Chúa mà họ cần và sẽ được mời gọi noi theo sự tìm kiếm lẽ thật của Chúng ta trong cuộc sống của họ.
Lạy Chúa của mọi Lẽ thật, trong Chúa và chỉ một mình Chúa, chúng con sẽ khám phá ra những lẽ thật giải thoát chúng con. Xin ban cho con ân sủng và lòng can đảm mà con cần để luôn tìm kiếm lẽ thật mà Chúa dạy. Khi con khám phá và hiểu được mọi điều Chúa dạy, xin giúp con bày tỏ những khám phá của mình với niềm vui và sự nhiệt thành để những người khác cũng sẽ bị thu hút đến với Chúa. Chúa Giê-xu, con tin cậy nơi Chúa.
Reflection Sunday 31th Ordinary Time Year B
The scribe said to him, “Well said, teacher. You are right in saying, ‘He is One and there is no other than he.’ And ‘to love him with all your heart, with all your understanding, with all your strength, and to love your neighbor as yourself’ is worth more than all burnt offerings and sacrifices.” Mark 12:32–33
This scribe got it. He posed a question to Giêsu after Giêsu was challenged by some of the Sadducees who did not accept Giêsu’ teachings about the resurrection of the dead. The Sadducees were trying to trip Giêsu up, and this scribe listened carefully to Giêsu’ answer and found it to be well said. Therefore, this scribe asks Giêsu his own question. He doesn’t ask this question in an attempt to trap Giêsu, but because he appeared to sincerely want to hear Giêsu’ answer. So he asked Giêsu, “Which is the first of all the commandments?” To that question, Giêsu gives a summary of the whole law of God saying that we must first love God with our whole heart, mind, soul and strength and then love our neighbor as ourselves.
We must all try to imitate this scribe. It was risky for him to show support of Giêsu. Many of the other scribes were quite hostile toward Giêsu. Therefore, by openly expressing His agreement with what Giêsu taught, he was putting himself at risk of being criticized. But it appears he was not concerned about that. He was a seeker of truth, and Giêsu ended up paying him a huge compliment by saying, “You are not far from the kingdom of God.”
In our growingly secular world, there are many truths of God that are being openly questioned and challenged. Agreement on what are the moral truths is becoming more of the exception than the norm. As a result, we will all find ourselves experiencing hostility from the world simply by being seekers of the truth. Many people even find that a mere refusal to openly support objective immorality will make them a target of the secular world.
Are you a seeker of truth? Do you recognize the holy truths of God when you hear them? If so, do you have the courage you need to pursue those truths and articulate them in accord with the mind of God in the presence of others? Evangelization is different from proselytism. Proselytism is a hostile and forceful preaching of the truths of God. It is argumentative and lacks basic respect for the freedom and dignity of others. Evangelization, on the other hand, is an essential practice that every follower of Christ must engage in. At the heart of evangelization is an honest and humble seeking of the truth in every situation. One who evangelizes does not attack another. They do not criticize and condemn. Instead, they seek to understand the full truth themselves and then openly share that truth with those who are open to it.
In many ways, this scribe did just that. He listened, understood, inquired, and then freely shared his faith in what Giêsu said. Those who listened to him, especially other scribes, might not have agreed with his conclusions. They might have even criticized him among themselves. But the witness of this scribe might have opened the minds and hearts of others who were listening. Some would have sensed his openness, his understanding, and his joyful response and allowed his conversation with Giêsu to affect them for the good. Thus, by openly seeking the truth, this scribe also evangelized others and Giêsu praised Him for his good work.
Reflect, today, upon the way that you share your faith with others. Are you one who tends to be argumentative and condemning? Or do you allow the joy of your own discovery of the truths of God do the evangelizing? Be a seeker of Truth. Do so openly and with joy. If you do, others will discover in you the truths of God that they need and will be invited to imitate your truth-seeking in their own lives.
Lord of all Truth, in You and You alone will we discover the truths that set us free. Give me the grace and courage I need to always seek out the truth You teach. As I discover and understand all that You teach, help me to express my discoveries with joy and enthusiasm so that others will also be drawn to You. Giêsu, I trust in You.
Opening Prayer: Lord God, I love you. My heart is yours to dwell in. My soul longs to be with you. My mind rejoices to contemplate all you have done for me. My strength depends on your power. May my love for you flourish in service to my brothers and sisters today.
Encountering the Word of God
1. Deuteronomy as Moses’ Last Will and Testament: Today’s First Reading is taken from the Book of Deuteronomy, which contained Moses’ last speeches before his death. When Moses spoke to them, the people of Israel were at the end of their forty years of wandering in the desert. Throughout their time in the wilderness, Israel continually rebelled against the Lord. When Israel worshipped the golden calf at the beginning of their time in the desert, the priesthood was stripped from the first-born sons and reserved to the tribe of Levi (Exodus 32:29). Additional laws about the Levites and the Priesthood were given to the people in the Book of Leviticus. Something similar happens here in the Book of Deuteronomy. Moses responded to the people’s sinful apostasy at Baal Peor (Numbers 25) with more laws that were recorded in the Book of Deuteronomy. Moses tried to prepare the people for life in the Promised Land: “He warns the twelve tribes of the challenges they will face in the future and urges them to be mindful of the lessons of the past. Above all, Moses proclaims the Lord’s love for Israel and makes powerful appeals for Israel to return his love by loyal obedience to the covenant” (Ignatius Catholic Study Bible: Deuteronomy, p. 14). Deuteronomy “emphasizes the need to obey the Lord and love him with all one’s heart, anticipating Jesus’ teaching on the first and greatest commandment” (A Catholic Guide to the Old Testament, p. 167).
2. The Two Great Commandments: As the New Lawgiver, Jesus responded to the scribe who asked him about the greatest of the 613 laws given in the Five Books of Moses (Genesis through Deuteronomy). The scribe approved of Jesus’ answer that the first commandment is to love God and that the second is to love our neighbor. The scribe added that living these two commandments was more valuable than all the burnt offerings (holocausts), animal sacrifices, and other offerings made in the Temple in Jerusalem. The sacrifices were rituals that symbolized the worshipper’s self-offering to God. Some sacrifices – like the burnt offering, cereal offering, and peace offering – expressed communion with God. The other two types of sacrifices – the sin offering and the guilt offering – sought to restore communion with God. By proclaiming love of God and love of neighbor as the two greatest commandments, Jesus brings the many and varied laws about sacrifices to their fulfillment. The animal sacrifices commanded by the Law of Moses foreshadowed the perfect self-offering of Jesus, who empowers us with the grace of the Holy Spirit to lovingly offer our lives to God and lovingly serve our brothers and sisters.
3. The Son was Appointed High Priest by Oath: The Second Reading draws out a contrast between the old and the new, between the old priesthood and the new priesthood. The Letter to the Hebrews wants us to understand how Jesus is a priest, especially since he did not descend from the tribe of the Levites or the priestly line of Aaron. The author’s solution in the letter is to refer to a greater priesthood, to that of the royal sons of David. The author points out that the Levitical priests were many and subject to death. As well, the High Priest who descended from Aaron had to offer sacrifices for his own sins and for those of the people. The Aaronic High Priest was appointed by the Law of Moses and not by a covenant oath sworn by God. The greater priesthood is that of Jesus, the Son of God and Son of David, who was appointed by God the Father and perfected (ordained) as a priest through his passion and sacrificial death. Jesus does not have to offer up many sacrifices daily and yearly in the earthly Temple. Jesus has offered up the one perfect and pleasing sacrifice of himself. This sacrifice effectively takes away the sins of the world and offers forgiveness and salvation to those who approach the Father through the Son. Even now, sitting at the right hand of God the Father, Jesus makes intercession for us as our eternal, faithful, and merciful high priest.
Conversing with Christ: Lord Jesus, eternal and merciful high priest, intercede for me before the Father and send me your Holy Spirit so that I may love the Father with all my heart, soul, mind, and strength. Enlighten my mind to know how I am called to serve my brothers and sisters today.
Thirty-first Sunday in Ordinary Time (B)
Today, it’s very fashionable to talk about love for our neighbors, Christian justice, and so on. But we rarely hear about the love for God.
For this reason, we must pay close attention to Jesus’s response to the scribe who, with the best of intentions, asks Him, ‘Which is the first of all the commandments?’ (Mk 12:29), which is not surprising given that, among so many laws and rules, the Jews sought to identify a guiding principle that would unify all expressions of God’s will.
Jesus answers with a simple prayer that, even today, Jewish people recite several times daily and carry on their person: “‘Hear, Israel! The Lord, our God, is One Lord; and you shall love the Lord, your God, with all your heart, with all your soul, with all your mind and with all your strength’” (Mk 12:29-30). Jesus is reminding us that, above all, we must proclaim the primacy of love for God as humankind’s fundamental task; this is both logical and fair, as God has loved us first.
However, for Jesus it is not enough to remind us about this primary and foundational commandment but adds that we must love our neighbor as ourselves. And, as Benedict XVI said: “Love of God and love of neighbor are thus inseparable, they form a single commandment. But both live from the love of God who has loved us first.” A rarely discussed aspect is that Jesus commands us to love our neighbor as ourselves—no more, but no less. This implies that He also commands us to love ourselves, for we too are the work of God’s hands, beloved by Him. If we take the double commandment of love for God and our neighbors as our guiding rule of life, Jesus will say to us, “You are not far from the kingdom of God” (Mk 12:34). And if we live by this ideal, we will make earth a rehearsal for Heaven.
No comments:
Post a Comment